Câu hỏi 1: Phân tích sự cần thiết và xu hướng xã hội hóa dịch vụ công, liên hệ thực tiễn.
* Khái niệm dịch vụ công: dịch vụ công có thể được hiểu là những hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội, do nhà nước trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân thực hiện.
* Xã hội hóa là: quá trình huy động, tổ chức tham gia rộng rãi, chủ động của nhân dân và các tổ chức vào hoạt động cung ứng dịch vụ công trên cơ sở phát huy tính sáng tạo và khả năng đóng góp của mỗi người trên cơ sở tăng cường vai trò của NN. Xã hội hóa là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm cải thiện hiệu quả cung ứng dịch vụ công vì từ thực tế có rất nhiều tổ chức công hoạt động kém hiệu quả, gây tổn thất cho xã hội và lãng phí nguồn lực ngân sách do nhân dân đóng góp.
* Xã hội hóa dịch vụ công bao gồm những nội dung sau:
Một là, chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư. Đối với các dịch vụ công mà Nhà nước không can thiệp hoặc can thiệp không có hiệu quả thì Nhà nước có thể chuyển giao nhiệm vụ này cho khu vực tư, tức là cho phép các tổ chức trong khu vực tư nhân tham gia vào việc cung ứng dịch vụ công này.
Hai là, huy động sự đóng góp của các tổ chức và công dân. Việc huy động sự đóng góp của các tổ chức và công dân được thực hiệ với hai phương thức cơ bản:
- Huy động kinh phí đóng góp của dân vào việc cung ứng dịch vụ công của các tổ chức nhà nước.
- Động viên, tổ chức sự tham gia rộng rãi, chủ động và tích cực của các tổ chức và công dân vào quá trình cung ứng dịch vụ công, đa dạng hóa các hoạt động cung ứng dịch vụ công trên cơ sở phát huy công sức và trí tuệ của dân. Chẳng hạn, huy động chất xám, năng lực quản lý, công sức của người dân vào các hoạt động cung cấp dịch vụ công.
* Trước đây, dịch vụ công do nhà nước cung cấp, nhưng nay đã lỗi thời. Nhà nước không đủ sức đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các tổ chức và công dân, do vậy cần thiết phải xã hội hóa dịch vụ công vì các lý do sau:
Thứ nhất, việc chuyển giao một số dịch vụ công cho các cơ sở ngoài nhà nước sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh, tạo điều kiện cho người tiêu dùng lựa chọn và sử dụng những dịch vụ tốt nhất. Qua đó, tổ chức ngoài Nhà nước có điều kiện để khẳng định chính mình, đáp ứng nhu cầu tốt hơn và ngày càng cao của công dân. Các tổ chức này luôn phải đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả để tồn tại và phát triển.
Thứ hai, có nhiều dịch vụ công Nhà nước làm được, nhưng xét chung thì tư nhân sẽ làm tốt hơn, tốc độ nhanh, trọn gói, gọn gàng, đội ngũ nhân viên làm việc nhiệt tình và thuận lợi hơn.
Thứ ba, xã hội hóa dịch vụ công nhằm để huy động mọi nguồn lực xã hội đáp ứng dịch vụ cho công dân. Tạo điều kiện cho mọi người tham gia tích cực vào hoạt động này, phát huy khả năng, năng lực tiềm tàng trong xã hội; khơi dậy tính sáng tạo, chủ động, tích cực của người dân... nhờ đó đa dạng hóa và tăng nguồn cung ứng dịch vụ công cho xã hội.
Ngoài ra còn huy động, động viên sự đóng góp kinh phí của mỗi người cho hoạt động cung ứng dịch vụ công cho Nhà nước; làm giảm gánh nặng ngân sách cho Nhà nước để Nhà nước tập trung ngân sách vào những nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Thứ tư: Xã hội hóa dịch vụ công trong điều kiện phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng cùng với sự phát triển cơ chế thị trường là một giải pháp cần thiết để góp phần tạo ra sự công bằng tương đối trong tiêu dung các dịch vụ công. Điều đó có nghĩa là những ai tiêu dung nhiều dịch vụ công thì phải trả tiền nhiều hơn. Riêng trong trường hợp cung cấp các dịch vụ công tối cần thiết cho những người thuộc diện khó khăn, nghèo đói hoặc là đối tượng chính sách, Nhà nước cần có những quy định ưu đãi hoặc hỗ trợ phù hợp để đảm bảo công bằng xã hội, giảm bớt sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo.
Thực tiễn vấn đề xã hội hóa các dịch vụ công, như cổ phần hóa một số bệnh viện, trường công lập nhằm nâng cao chất lượng chữa bệnh, chất lượng đào tạo nên được xem xét một cách nghiêm túc, nếu thật sự điều này dẫn đến một sự cải thiện về nguồn vốn đầu tư, về hiệu quả đầu tư, về hiện đại hóa công nghệ, cải thiện cung cách quản lý, tạo động lực làm việc và nâng cao chất lượng phục vụ. Cộng đồng sẽ có nhiều bệnh viện tốt hơn, nhiều trường học tốt hơn để phục vụ bệnh nhân tốt hơn và đào tạo học sinh tốt hơn. Những nơi này không cung cấp dịch vụ miễn phí nhưng thật ra, điều này không làm thay đổi chính sách điều trị miễn phí bệnh nhân nghèo, cũng như không làm thay đổi chính sách giáo dục cưỡng bách quốc gia, nếu chúng ta thực sự muốn duy trì các chương trình xã hội cần thiết này.
* Liên hệ thực tiễn một lĩnh vực y tế
Trong tất cả các chính sách phát triển đất nước thì chính sách xã hội hóa dịch vụ công cộng được xem là chính sách mang tầm chiến lược hang đầu của Đảng và nhà nước ta. Trong chính sách xã hội hóa dịch cụ công nói chung thì chính sách là xã hội hóa y tế là chính sách được đưa vào trong 3 chính sách đi đàu của đất nước là giáo dục, y tế, văn hóa. Vì đây là chính sách phát triển đất nước trong thời kỳ mới- thời kỳ hội nhập nâng cao đời sống nhân dân cải thiện dịch vụ công cộng xã hội.
Trong những năm qua, ngành y tế đã được Nhà nước quan tâm đầu tư phát triển các cơ sở khám, chữa bệnh từ Trung ương đến địa phương bằng các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, ODA và các nguồn vốn khác. Nhiều bệnh viện (BV) từ tuyến Trung ương, tuyến tỉnh, tuyến huyện được đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ và từng bước hoàn thành đưa vào sử dụng để phục vụ bệnh nhân.
Tuy nhiên, hiện nay cơ sở hạ tầng của ngành y tế vẫn chưa đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người dân. Tỷ lệ giường bệnh trên vạn dân còn thấp. Hầu hết các BV đều có công suất sử dụng giường bệnh cao do chưa được mở rộng. Số giường bệnh nhiều chuyên khoa như tim mạch, ung bướu, chấn thương, sản nhi,... còn thấp so với nhu cầu và cơ cấu bệnh tật. Cơ sở vật chất y tế tuyến cơ sở xuống cấp, trang thiết bị y tế thiếu, lạc hậu, không đồng bộ, gây ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ y tế.
Vì thế, trong điều kiện nguồn vốn từ ngân sách nhà nước hạn chế, giải pháp huy động các nguồn lực từ xã hội để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, hợp tác về quản lý, nâng cao chất lượng của hệ thống y tế đang được kỳ vọng sẽ mang lại những hiệu quả khả quan. Nguyên tắc tự chủ, công khai minh bạch, tránh xung đột lợi ích, lợi ích nhóm, phải đặt bệnh nhân làm trung tâm.
Ngoài ra, việc liên doanh, liên kết đã đạt được một số kết quả tích cực như phát triển nhiều kỹ thuật mới, trang bị được nhiều loại thiết bị hiện đại, tiên tiến như hệ thống PET.CT, CT-Scanner các loại (có cả loại 256, 128 và 64 lớp cắt), hệ thống cộng hưởng từ, máy gia tốc tuyến tính, các thiết bị tán sỏi ngoài cơ thể, mổ Phaco, siêu âm màu, máy xét nghiệm các loại... giúp nâng cao hiệu quả chẩn đoán và điều trị, phát hiện sớm, chính xác bệnh tật, giảm tỷ lệ tử vong.
Nhiều kỹ thuật mới, kỹ thuật cao đã được thực hiện, làm cho trình độ kỹ thuật về y tế của Việt Nam đang dần tiến bộ ngang với các nước tiên tiến trong khu vực. Người dân, trong đó có người nghèo, cận nghèo, trẻ em, đối tượng chính sách cũng được hưởng lợi vì được sử dụng các dịch vụ này, kể cả các dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn và được BHYT thanh toán.
Câu hỏi 2: Xác định yêu cầu về cải cách dịch vụ hành chính công đối với một lĩnh vực mà anh chị quan tâm
*Khái niệm dịch vụ hành chính công
Dịch vụ hành chính công là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước (hoặc tổ chức, doanh nghiệp được ủy quyền) có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý trong các lĩnh vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý.
Đây là loại hình dịch vụ gắn liền với chức năng quản lý nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân. Do vậy, cho đến nay, đối tượng cung ứng duy nhất các dịch vụ công này là cơ quan công quyền hay các cơ quan nhà nước thành lập được ủy quyền thực hiện cung ứng dịch vụ hành chính công. Đây là một phần trong chức năng quản lý nhà nước. Để thực hiện chức năng này nhà nước phải tiến hành những hoạt động phục vụ trực tiếp như cấp giấy phép, giấy chứng nhận, đăng ký, công chứng, thị thực, hộ tịch... Người dân được hưởng những dịch vụ này không theo quan hệ cung cầu, ngang giá trên thị trường, mà thông qua việc đóng lệ phí hoặc phí cho các cơ quan hành chính nhà nước. Phần lệ phí này mang tính chất hỗ trợ cho ngân sách nhà nước.
Hành chính công có liên quan đến mức độ thỏa mãn các nhu cầu công cộng của xã hội, liên quan đến tiến bộ kinh tế, xã hội của một quốc gia. Theo các nhà nghiên cứu Trung Quốc, tác dụng của hành chính công chủ yếu là tác dụng dẫn đường, tác dụng quản chế, tác dụng phục vụ và tác dụng giúp đỡ. Nói về tác dụng quản chế, tức là nhà nước phát huy năng lực quản lý công cộng mang tính quyền uy, cưỡng chế để xử lý, điều hòa các quan hệ xã hội và lợi ích xã hội, đảm bảo cho xã hội vận hành tốt; còn về tác dụng giúp đỡ, đó chính là sự giúp đỡ của nhà nước đối với các địa phương nghèo, những người có hoàn cảnh khó khăn, như giúp đỡ người nghèo, cứu tế xã hội, phúc lợi xã hội, bảo hiểm xã hội, y tế…Việc cung ứng dịch vụ hành chính công còn tác dụng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Khi cung cấp các dịch vụ này, nhà nước sử dụng quyền lực công để tạo ra dịch vụ như cấp các loại giấy phép, đăng ký, chứng nhận, thị thực…Tuy xét về mặt hình thức, sản phẩm của các dịch vụ này chỉ là các loại văn bản giấy tờ, nhưng chúng lại có tác dụng chi phối quan trọng đến các hoạt động kinh tế- xã hội của đất nước. Chẳng hạn, giấy đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện việc nhà nước công nhận doanh nghiệp đó ra đời và đi vào hoạt động, điều này dẫn đến những tác dụng và kết quả đáng kể về mặt kinh tế- xã hội. Ngoài ra, thông qua việc cung ứng dịch vụ công, nhà nước sử dụng quyền lực của mình để đảm bảo quyền dân chủ và các quyền hợp pháp khác của công dân.
*Dịch vụ hành chính công gắn với chức năng phục vụ và quản lý của nhà nước
Dịch vụ hành chính công gắn với chức năng phục vụ và quản lý của nhà nước, do các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện để phục vụ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã chú trọng đổi mới và nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công, coi đó là một khâu quan trọng trong việc thực hiện chương trình cả cách nền hành chính cả về thể chế, thủ tục, tổ chức bộ máy và cán bộ. Nhà nước đã bắt đầu áp dụng các phương tiện kỹ thuật điện tử, tin học để nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công, như việc cung cấp thông tin về thể chế, tổ chức, đấu thầu các dự án chi tiêu công, đăng ký cấp phép kinh doanh, cấp phép đầu tư, hỏi đáp pháp luật hay đăng ký xe máy…Nhìn chung việc cung ứng dịch vụ hành chính công có một số tiến bộ, nhưng không đều. Người dân và doanh nghiệp được tạo thuận lợi và dễ dàng hơn trong một số việc cần giải quyết với cơ quan nhà nước, như đăng ký kinh doanh, làm thủ tục hộ tịch, tìm hiểu luật pháp….song còn gặp nhiều rắc rối, phiền hà trong nhiều lĩnh vực khác, như cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà, đất, cho thuê dất, cấp phép xây dựng nhà, công chứng, hộ khẩu….Người dân và doanh nghiệp vẫn tiếp tục là “nạn nhân” của tình trạng phiền nhiễu, bất hợp lý, chậm trễ, thiếu hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính các cấp
* Yêu cầu về cải cách dịch vụ hành chính công đối với một lĩnh vực cấp phép xây dựng: Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới đòi hỏi đất nước ta phải tiến hành những sự thay đổi lớn, trong đó có sự thay đổi về cải cách hành chính với trọng tâm là dịch vụ hành chính công trong vấn đề cấp phép xây dựng Của Bộ Xây dựng. Thời gian qua, Bộ Xây dựng đã rất tập trung trong cải cách hành chính. Từ khâu soát xét các văn bản pháp luật hiện có, trình Chính phủ ban hành nhiều Nghị định quan trọng, trong đó có Nghị định số 64/2012/NĐ-CP về cấp phép xây dựng đã được Ngân hàng Thế giới đánh giá rất cao về tính minh bạch hóa trong hoạt động cấp phép. Các công tác quản lý nhà nước khác ở Bộ Xây dựng đều được các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có liên quan đánh giá rất cao về tính minh bạch, công khai, thuận lợi và thân thiện.
Vừa qua, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 202/QD-BXD về việc Ban hành kế hoạch cải cách hành chính năm 2014. Việc ban hành kế hoạch này nhằm thực hiện Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ về việc Ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011 - 2020. Trước đó, căn cứ vào Quyết định 896/QĐ-TTg ngày 08/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013 - 2020, Bộ Xây dựng cũng đã ban hành Quyết định số 1168/QĐ-BXD về kế hoạch tổng thể triển khai thực hiện Đề án 896 của Bộ Xây dựng.
Mục tiêu của kế hoạch là góp phần đảm bảo sự quản lý, điều hành thông suốt, chuyên nghiệp, minh bạch, hoạt động có hiệu quả, từng bước hiện đại hóa để đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của tổ chức, cá nhân trong ngành nghề, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng; tăng cường quản lý nhà nước về lĩnh vực xây dựng. Về thể chế, Bộ Xây dựng tiếp tục nghiên cứu xây dựng các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành; phối hợp với các bộ, ban, ngành có liên quan xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền.
Trong thời gian qua Công tác đầu tư xây dựng cơ bản có vai trò quan trong trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Được sự lãnh đạo của UBND tỉnh của các đại phương, cùng với sự nổ lực của các cấp, các ngành, các địa phương nên công tác XDCB ở địa phương đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường cơ sở hạ tầng, làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội của tỉnh. Tuy nhiên,Công tác XDCB ở các địa phương vẫn bộc lộ một số yếu kém chậm được khắc phục, nhất là việc thực hiện thủ tục trình tự XDCB còn chậm, gây phiền hà làm ảnh hưởng một phần đến tiến độ thực hiện các dự án đầu tư; việc thực hiện kế hoạch XDCB hàng năm đạt không cao, giải ngân vốn còn chậm làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của tỉnh.
Để giải quyết tình trạng đó việc cải cách các thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư và xây dựng là hết sức cần thiết. Nội dung cải cách thủ tục hành chính trong công tác đầu tư XDCB bao gồm tất cả các khâu từ công tác giới thiệu địa điểm giao đất, cho thuê đất, lập thẩm định dự án, giải phóng mặt bằng, thẩm định thiết kế tổng dự toán, đấu thầu, nghiệm thu... quyết toán công trình hoàn thành. Sở Xây dựng là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về ĩnh vực xây dựng trên địa bàn tỉnh. Trong hoạt động đầu tư và xây dựng, Sở Xây dựng trực tiếp tham mưu cho UBND trong lĩnh vực giới thiệu địa điểm xây dựng, cấp chứng chỉ quy hoạch , tham gia như xét duyệt báo cáo đầu tư xây dựng, cấp phép xây dựng và thực hiện thẩm định thiết kế - tổng dự toán các dự án đầu tư thuộc chuyên ngành xây dựng dân dụng công nghiệp. Trong những năm gần đây, cùng với sự nổ lực đổi mới của Nhà nước về cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng, Sở Xây dựng các địa phương đã tập trung chỉ đạo việc cải tiến lề lối làm việc từng bước khắc phục tình trạng quan liêu trì trệ... Nhờ vậy công tác giới thiệu địa điểm xây dựng , cấp phép xây dựng, thẩm định thiết kế dự toán đã có những bước tiến bộ đáng kể, cụ thể:
Thực hiện cơ chế một cửa về công tác giới thiệu địa điểm xây dựng , cấp chứng chỉ quy hoạch, cấp phép xây dựng nhằm: Từng bước loại bỏ một số thủ tục hành chính lạc hậu còn chưa phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.ban hành một số thủ tục hành chính mới nhằm tháo gỡ vướng mắc, hạn chế gây phiền hà góp phần tạo môi trường pháp lý thuận lợi thúc đẩy sản xuất đẩy mạnh phát triển đầu tư và phục vụ đời sống xã hội, đồng thời cải thiện mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước với nhân dân. Góp phần đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng các dự án, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương đề ra.
Mục tiêu -yêu cầu của mô hình "một cửa":
- Đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức.
- Giám bớt phiền hà ách tắc bằng biện pháp công khai các quy trình, thủ tục, thời gian giải quyết, lệ phí.
- Xây dựng lòng tin giữa cơ quan văn phòng Sở Xây dựng với nhân dân.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho mọi công dân, tổ chức khi có nhu cầu giải quyết công việc hành chính khỏi phải đi lại nhiều lần , tiếp xúc nhiều nơi, qua nhiều tầng nấc trung gian, tốn nhiều công sức, làm nản chí các nhà đầu tư từ ngoài tỉnh.
- Thông qua việc thực hiện cơ chế "một cửa" để không ngừng nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy văn phòng Sở, nâng cao chất lượng phục vụ , năng lực công tác, trình độ chuyên môn nghiệp vụ.vai trò trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp của công chức, viên chức cơ quan văn phòng Sở.
- Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, mở rộng phạm vi giải quyết hoặc đùn đẩy công việc cho nhau, giám bớt gánh nặng của lãnh đạo Sở trong việc xử lý các công việc sự vụ hàng ngày để tập trung nghiên cứu và đề ra những kế hoạch, biện pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực XDCB và quy hoạch đô thị.
Công tác cấp giấy phép xây dựng của các địa phương từng bước được cải cách thông qua các quy định về cấp giấy phép xây dựng và quản lý xây dựng theo giấy phép của Ủy ban nhân dân thành phố, phù hợp với quy định hiện hành của pháp luật về xây dựng, đảm bảo quyền lợi chính đáng của cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp thông qua giấy phép xây dựng.
Trong thời gian tới, hy vọng các giải pháp cải cách thủ tục hành chính cấp phép xây dựng được thực hiện tốt để tiết kiệm thời gian, chi phí cho cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc xin phép xây dựng nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương nói riêng và của đất nước ta ngày càng bền vững và phồn vinh.
Bình luận