Bài soạn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh cao học hành chính
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Nếu nước độc lập mà dân được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì”. Đồng chí hãy phân tích rõ luận điểm ấy và liên hệ với giai đoạn cách mạng hiện nay ?
Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là một lãnh tụ thiên tài, vừa là một danh nhân văn hóa thế giới và một nhà lý luận, tư tưởng lớn của cách mạng Việt Nam. Trong toàn bộ di sản về tư tưởng mà Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn là một trong những vấn đề trung tâm và được thể hiện rõ ràng, xuyên suốt qua quá trình hoạt động thực tiễn của cách mạng trong nước và trên thế giới. Chủ tịch HCM khẳng định “Nếu nước độc lập mà dân được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì”
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc phải gắn với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hãy làm rõ luận điểm trên.
1. Cơ sở lựa chọn mục tiêu độc lập – dân tộc :
Theo Hồ Chí Minh, Đối với các nước thuộc địa như nước Việt Nam giai đoạn này, độc lập dân tộc trước nhất chỉ có thể có được khi cách mạng giải phóng dân tộc thành công . Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh, mục tiêu cuối cùng của độc lập dân tộc không chỉ dừng lại ở giai đoạn hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà phải thực hiện tiếp cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, trong nhận thức về con đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra hạn chế của các nhà yêu nước đương thời. Do chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng, bất cập trước lịch sử, dựa trên ý thức hệ phong kiến hoặc xu hướng dân chủ tư sản nên không tránh khỏi thất bại và bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào yêu nước của nhân dân ta. Từ đó, Hồ Chí Minh đã đi bắt đầu con đường đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình bôn ba ở nước ngoài, HCM đã : tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới, tìm hiểu nghiên cứu các kiểu nhà nước và khảo sát cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức. Tiếp xúc với Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, HCM đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc. Sự kiện đó đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng HCM, từ CN yêu nước đến CN Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp từ người yêu nước thành người cộng sản. Lý luận về cách mạng không ngừng của Lênin có ảnh hưởng rất sâu sắc đến tư tưởng của Người, cho thấy sự gắn bó chặt chẽ giữa 2 cuộc cách mạng : cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN, cách mạng giải phóng dân tộc là tiền đề cho cách mạng XHCN và cách mạng XHCN là sự khẳng định của thành quả cách mạng của giải phóng dân tộc.
Có thể nhận thấy rằng dưới góc độ giải phóng, giành được độc lập dân tộc mới chỉ là cấp độ đầu tiên. Giải phóng về mặt chính trị, tự bản thân nó chưa phải là công cuộc giải phóng hoàn toàn, hay nói cách khác, độc lập dân tộc là tiền đề đầu tiên để tiến lên chủ nghĩa xã hội, đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Lôgíc lịch sử tự nhiên của sự vận động phong trào giải phóng dân tộc tất yếu dẫn tới chủ nghĩa xã hội do bản chất cách mạng triệt để của nó.
Nghiên cứu Cương lĩnh dân tộc của Lênin : bình đẳng, tự quyết, đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhận thấy rằng sau khi cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Độc lập dân tộc đòi hỏi trước hết phải đảm bảo cho dân tộc đó quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mô hình phát triển, độc lập cả về chính trị, kinh tế, văn hóa. Vì vậy, chỉ có thể tiến hành thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đất nước giành được độc lập thì dân tộc ấy mới có thể chọn lựa con đường phát triển đất nước đi theo chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, giành được độc lập dân tộc là tiền đề cho việc xây dựng chế độ XHCN
- Độc lập dân tộc cũng đòi hỏi phải thực sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, con người được phát triển toàn diện, hạnh phúc; con người được phát triển toàn diện, có năng lực làm chủ. Độc lập tự do đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột, nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế giới không có chiến tranh, không có sự hoành hành của cái ác, của những sự tàn bạo và bất công, bảo đảm cho con người sống trong an ninh và hạnh phúc. Vì vậy, để đảm bảo độc lập dân tộc thực sự và giữ vững thành quả ấy, cả nước phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật của thời đại, đáp ứng nguyện vọng ngàn đời của nhân dân ta là độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Người nói “chúng ta tranh được tự do độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập thì tự do, độc lập cũng không làm gì”. Để giữ vững độc lập, tự chủ, để đảm bảo cho nhân dân một cuộc sống ấm no hạnh phúc, chúng ta không có con đường nào khác là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội.
2. Con đường để thực hiện mục tiêu độc lập dân tôc và CNXH :Với ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc không chỉ mang lại độc lập thống nhất cho tổ quốc, mà trong từng bước phải mang lại tự do, hạnh phúc cho toàn dân.
a. Cách mạng giải phóng dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi trước nhất phải đi theo con đường cách mạng vô sản, tư tưởng này thể hiện rõ qua luận điểm “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng chỉ có thể sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cuộc cách mạng thế giới”. Người đã sớm chỉ ra cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường của cách mạng vô sản và cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Lập trường dứt khoát này của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là phù hợp với trào lưu tiến hóa của lịch sử, vừa nói đến tính triệt để trong tư tưởng Hồ Chí Minh khi đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản.
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi còn phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Quan điểm này đã được Hồ Chí Minh khẳng định: muốn cách mạng giải phóng dân tộc thành công trước hết phải có Đảng Cách mệnh … Đảng có vững thì cách mạng mới thành công … Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt … bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ .nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lê nin.
Hồ Chí Minh cũng chỉ rằng muốn giải phóng dân tộc phải thực hiện con đường cách mạng bạo lực. Người khẳng định: "Dân tộc Việt Nam nhất định phải được giải phóng. Muốn giải phóng thì phải đánh phát xít Nhật và thì phải đánh phát xít Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì phải có lực lượng quân sự. Muốn có lực lượng quân sự thì phải có tổ chức. Muốn tổ chức thành công thì phải có kế hoạch, có quyết tâm". Khẳng định giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng bạo lực, song Hồ Chí Minh luôn chủ động, tích cực đưa ra giải pháp để tranh thủ khả năng hòa bình và phát triển của cách mạng.Bên cạnh đó, Người cũng chỉ rõ cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công – nông. Người nhận định rằng cách mạng giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền. Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi đó không được quên cái cốt của nó là công - nông : “công - nông là người chủ cách mệnh … công nông là gốc cách mệnh”. .
b. Cách mạng xã hội chủ nghĩa. :
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội được nói đến một cách thiết thực, cụ thể, dễ hiểu :”CNXH trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn, bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”. “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập tự do cũng không có ý nghĩa gì”. “CNXH là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt được dần dần được xóa bỏ”; “CNXH là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”. Nói tóm lại “CNXH là làm sao cho dân giàu nước mạnh“, từ những lời phát biểu ngắn gọn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta có thể khái quát những nét đặc trưng bản chất sau đây của CNXH :
Một là CNXH là là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước phải phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hai là CNXH là một xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lưc lượng sản xuất ngày càng hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Ba là CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó, người với ngừơi là bạn bè, là đồng chí là anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẳn có của mình
Năm là CNXH là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng .Bốn là CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không hưởng, các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp đở để tiến kịp miền xuôi
Đó là những bản chất của CNXH và cũng là những mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta đang ra sức phấn đấu để đạt tới.
Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, trong đó bao trùm lên tất cả là động lực con người, trên cả hai bình diện : cộng đồng và cá nhân. Đó là phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc - động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Đó là phát huy sức mạnh của con người được giải phóng để làm chủ. Để phát huy sức mạnh này phải tác động vào nhu cầu, lợi ích của con người, phát huy động lực chính trị, tinh thần đạo đức, truyền thống, quyền làm chủ của người lao động, thực hiện công bằng xã hội … Đó là khắc phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, bao gồm đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu, chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học tập cái mới … Đó cũng là những trở lực đối với sự nghiệp xây dựng CNXH.
Về con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam nhưng bao trùm, “to nhất” là đặc điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH, không phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN”
Về độ dài của thời kỳ quá độ, Người nói “xây dựng CNXH là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ lâu dài”
Về bước đi của thời kỳ quá độ, Người đã chỉ rõ : “Ta xây dựng CNXH từ 2 bàn tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài”, “phải làm dần dần”, “không thể một sớm một chiều”, “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”. Tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam phải qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tuỳ theo hoàn cảnh”, nhưng chớ ham làm mau, ham rầm rộ … đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần ..”Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, về phương diện kinh tế - văn hóa, Hồ Chí Minh chỉ rõ : ”.. phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH …có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng XHCN, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới mà xây dựng nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”. Về chính trị, nội dung quan trọng nhất để đảm bảo thắng lợi của công cuộc cách mạng này là giữ vững, tăng cường và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải được chỉnh đốn, nâng cao sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Mặt khác phải củng cố, tăng cường vai trò của Nhà nước, xây dựng những thể chế dân chủ, dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân, thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất; xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân và trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; củng cố và tăng cường sức mạnh toàn bộ hệ thống chính trị cũng như từng thành tố của nó trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh, đồng thời phải xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng XHCN. Về phương diện quốc tế, theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta buộc chúng ta phải có ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, hạn chế những khó khăn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành xây dựng CNXH ở Việt Nam, Người luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, phải suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đi lên CNXH ở nước ta giai đoạn hiện nay, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
Trước tình hình hiện nay, mặc dù CNXH đang ở vào giai đoạn thoái trào tuy nhiên CNXH vẫn là sự phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người và sự lựa chọn đi theo con đườg XHCN của Hồ Chí Minh và nhân dân là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn. Đất nước đang đứng trước những thử thách lớn lao của thời đại, hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải kiên định con đường mục tiêu của mình và phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động .
Với sự soi đường của tư tưởng HCM, Đảng đã xác định cụ thể những bước đi như sau : Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Ngày nay, để giữ vững độc lập dân tộc trong xây dựng CNXH giai đoạn hiện nay là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững định hướng XHCN, tự chủ về kinh tế và giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Nhân tố quyết định và đảm bảo cho sự phát triển đất nước đúng định hướng đó là tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý hiệu quả của Nhà nước, sự đoàn kết thống nhất của các tổ chức chính trị và đội ngũ cán bộ đản g viên.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ…".
"Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc." Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
"Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.” Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước."
Tóm lại, tư tưởng HCM về CNXH về con đường quá độ lên CNXH ở VN thực sự là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới của chúng ta hiện nay. Vấn đề là phải tiếp tục làm quá triệt những tư tưởng ấy trong cơ chế, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước. Trong tổ chức và hành động của mỗi cán bộ, Đảng viên, chỉ có bằng hiệu quả thực tế trong đổi mới KT và chính trị, đem lại sự cải thiện vật chất và tinh thần cho nhân dân, chúng ta mới củng cố được trong quần chúng niềm tin mà HCM đã khẳng định :” con đường tiến tới của CNXH của các dân tộc là con đường chung của thời đại, của lịch sử, không ai ngăn cản nổi”
Bình luận