Bằng những dẫn chứng cụ thể chứng minh rằng ở nước ta quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp?
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta năm 1991, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội” đã bắt đầu nhắc tới sự tồn tại của ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và sự phân công, phối hợp giữa các quyền đó theo tinh thần “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp với sự phân công rành mạch ba quyền đó”. Đến Hội nghị Trung ương 8, khóa VII, quan điểm trên đã được hoàn thiện thêm một bước là “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Quan điểm này tiếp tục được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta khẳng định “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Nghị quyết Đại hội X nêu rõ “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” [[1]]. Quan điểm này đã được Hiến pháp nước ta năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) chính thức ghi nhân tại điều 2 là: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Nói đến quyền lực Nhà nước là nói đến một dạng quyền lực xã hội mang tính ý chí, gắn liền với chủ quyền quốc gia, về bản chất, quyền lực nhà nước luôn thống nhất, nó thuộc về một chủ thể - đó là nhân dân. Quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, Nhà nước nhận quyền từ nhân dân - một khối thống nhất tạo nên một khả năng thống nhất vô cùng vững chắc trong đời sống xã hội [[2]]
Ở nước ta, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân lập ra và do đó nguồn gốc quyền lực của Nhà nước xuất phát từ nhân dân. Theo quy định tại Hiếp pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) và các Luật tổ chức bộ máy nhà nước thì tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Nhân dân thông qua chế độ bầu cử: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín đã tự nguyện trao quyền lực của mình cho các đại biểu Quốc hội và đã tập trung quyền lực của mình vào Quốc hội. Tại Điều 6, Hiến pháp Việt Nam năm 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001 quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân”.
Như vậy, quyền lực nhà nước ở nước ta tập trung quyền lực vào một tập thể. Tập thể này được nhân dân cả nước lựa chọn những người có đủ tài đức bầu ra theo nhiệm kỳ. Những người đó phải chịu trách nhiệm trước nhân dân cả nước, nếu không hoàn thành nhiệm vụ hoặc vi phạm kỷ luật tuỳ theo mức độ có thể bị cử tri hoặc Quốc hội bãi miễn - tập thể đó chính là Quốc hội. Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Để đảm bảo việc quản lý toàn diện, thống nhất các mặt quan trọng của đời sống xã hội, hệ thống các cơ quan nhà nước được thành lập từ Trung ương đến địa phương, ở địa phương, các cơ quan nhà nước sẽ thay mặt cho nhân dân cả nước thực hiện quyền lực nhà nước ở phạm vi địa phương, đồng thời đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương. (Điều 119, Hiến pháp Việt Nam năm 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001 quy định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”). Bằng cách tổ chức như vậy, quyền lực nhà nước ở Việt Nam luôn đảm bảo thống nhất, tránh được hiện tượng mâu thuẫn, xung đột giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, tính thống nhất quyền lực nhà nước không phải là tuyệt đối, bởi lẽ nó được thực hiện thông qua các cơ quan nhà nước khác nhau, mà giữa các cơ quan nhà nước không phải bao giờ cũng có sự thống nhất tuyệt đối với nhau trong mọi hoạt động của nhà nước.
Như vậy, trên quan điểm thống nhất quyền lực nhà nước, Đảng ta đã khái quát thành các nguyên lý: quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; Nhà nước của dân, do dân, vì dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tổ chức và hoạt động của Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những nguyên tắc trên từng bước được thể hiện trong các Hiến pháp nước ta: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980. Kế thừa những tư tưởng tổ chức quyền lực nhà nước của các Hiến pháp, phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm, Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện rõ và đầy đủ hơn sự thống nhất, sự phân công và phối hợp quyền lực trên cơ sở bảo đảm quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân, thuộc về nhân dân và thống nhất vào Quốc hội. Quyền lực của nhân dân được thống nhất vào Quốc hội nhưng để thực thi quyền lực đó có hiệu quả, Quốc hội thực hiện cơ chế phân công quyền lực. Quốc hội là cơ quan hiến định thống nhất các quyền nhưng không trực tiếp thực thi cả ba quyền, mà tập trung thực hiện quyền lập pháp; Chính phủ là cơ quan hiến định được phân công nắm quyền hành pháp; Toà án, Viện kiểm sát thực thi quyền tư pháp. Sự phân công như vậy là phù hợp bởi vì vẫn đảm bảo quyền lực thống nhất vào Quốc hội. Phân công thực hiện quyền lực nhà nước được hiểu là giao cho một hoặc một nhóm cơ quan cơ quan nhà nước thực hiện một quyền lực nào đó. Ở nước ta, việc phân công thực hiện quyền lực nhà nước nhằm hạn chế sự độc đoán, chuyên quyền, sự lạm dụng quyền lực trong bộ máy nhà nước. Tạo ra sự chủ động, linh hoạt, năng động của mỗi cơ quan nhà nước đối với công việc được giao. Ở nước ta Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam chủ yếu thực hiện quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước, bầu, bãi nhiệm những người đứng đầu các cơ quan nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của nhà nước; Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam chủ yếu thực hiện quyền hành pháp; Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân chủ yếu thực hiện quyền tư pháp; Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nhưng đồng thời là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân… Sự phân công thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ dừng lại giữa các loại cơ quan nhà nước khác nhau mà còn bao hàm cả sự phân công trong mỗi lợi cơ quan nhà nước khi cùng thực hiện một loại quyền lực. Chẳng hạn, thực hiện quyền hành pháp cần có sự phân công giữa chính phủ với các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, sự phân công giữa các cơ quan tư pháp trong việc thực hiện các quyền tư pháp (giữa Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án…), sự phân công giữa các Tòa án khác nhau về thẩm quyền xét xử…Việc tổ chức bộ máy nhà nước như trên luôn đảm bảo sự thống nhất giữa các cơ quan nhà nước, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của mỗi cơ quan nhà nước, chống được tình trạng tập trung quan liêu, đồng thời tránh tình trạng phân tán, cục bộ, phân quyền cát cứ trong việc thực hiện quyền lực nhà nước [[3]].
Có thể nhận thấy, quyền lực của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa được thực hiện theo cơ chế phân công và phối hợp. Đồng thời, trong quá trình tổ chức Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng đã chủ động thực hiện nguyên tắc này nhằm tổ chức quyền lực nhà nước chặt chẽ, xử lý khoa học mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước “tối cao” trong quá trình thực hiện quyền lực. Mỗi quyền lực phát huy hiệu lực của mình, không xâm phạm quyền lực khác và cũng không bị xâm phạm bởi quyền lực khác. Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát phải có vị trí tương đối độc lập trong bộ máy nhà nước và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình theo đúng Hiến pháp, Luật Tổ chức và Hoạt động các cơ quan nhà nước. Bản thân sự phân công quyền lực mang trong mình cơ chế ràng buộc lẫn nhau giữa các thiết chế quyền lực “tối cao” nhằm mục đích vừa bảo đảm cho mỗi loại hình cơ quan nhà nước tương đối độc lập, vừa bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước. Cơ chế phân công càng chặt chẽ, càng hợp lý thì quyền lực nhà nước càng thống nhất. Ngược lại, nếu cơ chế phân công quyền lực không chặt chẽ, mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước sẽ bị lỏng lẻo dẫn đến nguy cơ quyền lực nhà nước bị phân tán.
Như vậy, quyền lực nhà nước thống nhất vào Quốc hội nhưng được phân công cụ thể, rành mạch, trong đó, Quốc hội là cơ quan hiến định thống nhất các quyền nhưng không thực thi cả ba quyền, mà tập trung thực hiện quyền lập pháp; Chính phủ là cơ quan hiến định nắm quyền hành pháp; Tòa án nhân dân cùng với Viện Kiểm sát nhân dân được phân công thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của quyền lực nhà nước. Khi xét xử, thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không phụ thuộc vào bất cứ cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội nào. Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Việc phân biệt ra các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp không chỉ đơn thuần là sự phân công mà còn có ý nghĩa để thực thi quyền lực được bảo đảm khách quan, hiệu quả, giám sát, kiểm soát, chế ước lẫn nhau giữa các cơ quan thực hiện quyền lực, nhất là đối với thực thi quyền hành pháp, một loại quyền lực trực tiếp ảnh hưởng đến tự do, dân chủ, tới lợi ích của các tổ chức và cá nhân trong xã hội.
Sự phân công hợp lý, khoa học công việc giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước còn tạo ra sự chủ động, linh hoạt, năng động của mỗi cơ quan nhà nước cũng như cả bộ máy nhà nước đối với những công việc được giao, mỗi cơ quan phải chủ động, tự giác thực hiện tốt phần nhiệm vụ được giao phó. Sự phân công thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta thực hiện theo chiều ngang giữa các cơ quan nhà nước cùng cấp và theo chiều dọc giữa cùng một loại cơ quan ở cấp khác nhau. Sự phân công như vậy là phù hợp, rất cần thiết để xây dựng một nền hành chính quốc gia luôn luôn ổn định, thống nhất, thông suốt từ trung ương đến cơ sở và thực sự có hiệu lực, hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm thì sự phân công quyền lực nhà nước vẫn bộc lộ một số nhược điểm như: tình trạng đùn đẩy một số công việc nhất định của nhà nước, sự phân công một số cơ quan chưa rõ ràng, quy định nhiệm vụ thiếu chặt chẽ…gây khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ.
Xuất phát từ tính thống nhất của quyền lực nhà nước, với bộ máy nhà nước là một chỉnh thể thống nhất, thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Ở nước ta, để thực hiện quyền lập pháp thì Nhà nước (thông qua Quốc hội) ban hành các văn bản luật, để các văn bản áp dụng vào thực tế đời sống xã hội phải dựa vào quyền hành pháp (thông qua Chính phủ). Trong quá trình tổ chức thi hành luật không tránh khỏi những tranh chấp, vi phạm cần xét xử, giải quyết, do vậy phải cần đến quyền tư pháp (thông qua Tòa án) để phán quyết. Như vậy, sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước là để bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu đã được phân công của mỗi cơ quan nhà nước nói riêng và mục tiêu chung của cả bộ máy nhà nước nói chung. Phối hợp là sự hỗ trợ lẫn nhau để cùng thực hiện quyền lực nhà nước, có tác dụng chế ước, kiểm soát lẫn nhau để tránh nguy cơ lạm dụng quyền lực, tránh xung đột quyền lực. Chẳng hạn, để giải quyết một vụ án hình sự cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án, Thi hành án….bởi, mỗi cơ quan nhà nước cũng chỉ thực hiện một công đoạn, một chức năng nhất định trong quá trình giải quyết vụ việc. Chẳng hạn sự giúp đỡ của Chính phủ đối với Quốc hội trong việc soạn thảo các văn bản Luật giúp Quốc hội thực hiện tốt hơn quyền lập pháp của mình…Sự phối hợp còn tạo ra sự hiểu biết, thông cảm lẫn nhau, gắn kết chặt chẽ với nhau giữa các cơ quan nhà nước, hạn chế những sai sót, khuyết điểm trong hoạt động của mỗi cơ quan nhà nước. Không một cơ quan nhà nước nào thực hiện một quyền lực nào đó một mình mà luôn có sự phối hợp với các cơ quan nhà nước khác. Ví dụ, quyền lập pháp chủ yếu do Quốc hội thực hiện, còn các cơ quan khác như Chính phủ, Tòa án, Viện Kiểm sát…chỉ phối hợp với Quốc hội trong việc thực hiện quyền lập pháp.
Sự phân công chặt chẽ và cơ chế phối hợp rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước chỉ có thể đạt được trong thực tế nếu có sự giám sát lẫn nhau. Giám sát là rất cần thiết nhưng giám sát không phải là đối trọng, đối lập lẫn nhau. Ở nước ta, cơ quan thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước là Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không làm việc thì ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ đảm nhiệm, ở địa phương là Hội đồng nhân dân các cấp. Bên cạnh đó còn có sự giám sát từ phía các tổ chức Đảng, tổ chức chính trị xã hội và của nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước trong việc thực thi quyền lực nhà nước.
Để đảm bảo vận hành có hiệu quả nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ở nước ta hiện nay cần phải tập trung làm tốt những công việc sau:
Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến sự phân công phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thứ hai: Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, cải cách từng cơ quan nhà nước theo hướng tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nâng cao hơn nữa phẩm chất, chất lượng và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Thứ ba: Thực hiện đầy đủ nguyên tắc công khai, minh bạch, dân chủ trong hoạt động nhà nước. Không chỉ phân công phối hợp một cách hợp lý, hiệu quả, khao học giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, mà còn cần có sự phối hợp giữa các tổ chức đảng, các đoàn thể quần chúng trong lãnh đạo, phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước.
Thứ tư: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân. Từng bước đổi mới hoạt động giám sát của Quốc hội với Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước.
Tóm lại, vấn đề phân công, phối hợp và giám sát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước là vô cùng quan trọng, nó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu lực, hiệu quả của hoạt động Nhà nước. Như vậy, việc thực hiện nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” dưới ánh sáng Chủ nghĩa Mác-LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi Đảng và Nhà nước đang từng bước tổ chức xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
[1] Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, trang 126
[2] TS. Nguyễn Minh Đoan, vấn đề phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam
[3] Nguyễn Minh Đoan, Góp phần nhận thức về quyền lực nhà nước.
[4] TS. Nguyễn Minh Đoan, Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, NXB Chính trị quốc gia năm 2008
[5] TS. Nguyễn Minh Đoan, Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, NXB Chính trị quốc gia năm 2008
Bình luận